Thứ Tư, 7 tháng 1, 2009

CT 1609/TCT-CS V/v thuế suất thuế GTGT đối với uỷ thác gia công xuất khẩu

BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ

Số: 1609/TCT-CS
V/v thuế suất thuế GTGT đối với uỷ thác gia công xuất khẩu.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 24 tháng 4 năm 2008


Kính gửi: Cục thuế TP Hồ Chí Minh;
Cục thuế tỉnh Long An.

Tổng cục Thuế nhận được công văn số 01/PKT-2008 ngày 18/3/2008 của Công ty TNHH SX Song Hoà về việc thuế suất thuế GTGT đối với uỷ thác gia công xuất khẩu theo Thông tư số 32/2007/TT-BTC ngày 9/4/2007. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Tại điểm 1 mục II phần B Thông tư số 32/2007/TT-BTC ngày 9/4/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế GTGT (có hiệu lực từ ngày 4/6/2007) quy định: “Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, bao gồm cả hàng hoá gia công xuất khẩu...
1.1- Hàng hóa xuất khẩu bao gồm xuất khẩu ra nước ngoài kể cả uỷ thác xuất khẩu, bán cho doanh nghiệp chế xuất và các trường hợp được coi là xuất khẩu theo quy định của Chính phủ như:
a- Hàng hoá gia công chuyển tiếp theo quy định của pháp luật Thương mại về hoạt động mua, bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công hàng hoá với nước ngoài.
b- Hàng hóa gia công xuất khẩu tại chỗ theo quy định của pháp luật thương mại về hoạt động mua, bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công hàng hoá với nước ngoài.
c- Hàng hóa xuất khẩu để bán tại hội chợ, triển lãm ở nước ngoài”.
Căn cứ hướng dẫn trên, kể từ ngày 4/6/2007 (ngày có hiệu lực của Thông tư số 32/2007/TT-BTC) thì thuế suất thuế GTGT 0% không áp dụng đối với trường hợp uỷ thác gia công xuất khẩu (là trường hợp cơ sở ký hợp đồng gia công trực tiếp với nước ngoài nhưng ký hợp đồng giao lại cho cơ sở khác gia công. Cơ sở ký hợp đồng gia công trực tiếp với nước ngoài chỉ hưởng hoa hồng trên tiền gia công).
Đề nghị Cục thuế TP Hồ Chí Minh kiểm tra lại nội dung trả lời của công văn số 11760/CT-TTHT ngày 16/11/2007.
Tổng cục Thuế trả lời để Cục thuế biết và hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện./.

Nơi nhận:
KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG
- Như trên;
- Công ty TNHH SX Song Hoà (1097 Tạ Quang Bửu, P6, Q8, TPHCM);
- Vụ Pháp chế;
- Ban HT, PC, TTTĐ;
- Lưu: VT, CS (3).
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG



Đã Ký


Phạm Duy Khương

CT 5111/CT-TTHT V/v thuế suất UTGCXK

TỔNG CỤC THUẾ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CỤC THUẾ TP. HỒ CHÍ MINH Độc Lập – Tự Do - Hạnh Phúc
Số: 5111 /CT-TTHT
V/v: thuế suất thuế GTGT đối với ủy thác gia công xuất khẩu. TP. Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 05 năm 2008
Kính gởi: - Các Phòng thuộc Cục- Các Chi cục Thuế quận, huyện
Cục Thuế TP.HCM nhận được công văn số 1609/TCT-CS ngày 24/4/2008 của Tổng cục Thuế về thuế suất thuế GTGT đối với ủy thác gia công xuất khẩu, nội dung như sau:
“Kể từ ngày 04/6/2007 (ngày có hiệu lực của Thông tư số 32/2007/TT-BTC) thì thuế suất thuế GTGT 0% không áp dụng đối với trường hợp ủy thác gia công xuất khẩu (là trường hợp cơ sở ký hợp đồng gia công trực tiếp với nước ngoài nhưng ký hợp đồng giao lại cho cơ sở khác gia công. Cơ sở ký hợp đồng gia công trực tiếp với nước ngoài chỉ hưởng hoa hồng trên tiền gia công).”
Như vậy, đối với các trường hợp từ ngày 04/6/2007, ký hợp đồng gia công trực tiếp với nước ngoài nhưng giao lại cho cơ sở khác gia công, không có chênh lệch về giá gia công, chỉ hưởng hoa hồng trên tiền gia công, cơ sở nhận gia công lại được coi là ủy thác gia công xuất khẩu, đã áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% thì nay phải thực hiện theo hướng dẫn tại công văn số 1609/TCT-CS; cụ thể, các Doanh nghiệp gia công hàng hóa xuất khẩu khi lập hóa đơn GTGT cho Doanh nghiệp ký hợp đồng gia công trực tiếp với nước ngoài phải tính và kê khai thuế GTGT theo mức thuế suất 5% hoặc 10% tùy theo hàng hóa gia công.
Đối với các trường hợp từ ngày 04/6/2007, Doanh nghiệp gia công hàng hóa xuất khẩu khi lập hóa đơn GTGT cho Doanh nghiệp ký hợp đồng gia công trực tiếp với nước ngoài đã áp dụng thuế suất thuế GTGT là 0% thì xử lý lại như sau:
– Doanh nghiệp gia công hàng hóa xuất khẩu và Doanh nghiệp giao gia công lập biên bản để thu hồi hủy bỏ toàn bộ những hóa đơn GTGT (ghi đầy đủ ký hiệu…, số…, ngày…tháng…năm…, giá trị gia công…) mà Doanh nghiệp gia công hàng hóa xuất khẩu đã xuất với thuế suất 0%;
– Căn cứ biên bản hủy hóa đơn, Doanh nghiệp gia công hàng hóa xuất khẩu lập lại hóa đơn GTGT thay thế với thuế suất 5% hoặc 10% (tùy theo hàng hóa gia công) tương ứng với giá trị của từng hóa đơn đã liệt kê trong biên bản và kê khai nộp thuế vào tháng lập hóa đơn (ghi âm trên bảng kê 01-1/GTGT), không phải lập hồ sơ kê khai điều chỉnh theo mẫu 01/KHBS.
– Doanh nghiệp ký hợp đồng gia công trực tiếp với nước ngoài căn cứ hóa đơn của Doanh nghiệp gia công hàng hóa xuất khẩu giao để kê khai khấu trừ theo quy định.
Cục thuế thông báo để các Phòng thuộc Cục, các Chi cục Thuế quận, huyện hướng dẫn các Doanh nghiệp liên quan thực hiện thống nhất.
CỤC TRƯỞNG
Nơi nhận:
-Như trên
-TCT (Ban Chính sách) “để báo cáo”
-BLĐ Cục Thuế
-Cty TNHH XNK&DVGNHH Tất Thành Đã ký
(P.11, c/c Nguyễn Thái Bình, Q.1)
-Cty TNHH May Song Hòa
Nguyễn Đình Tấn(1097 Tạ Quang Bửu, Q.8)
-Cty TNHH May Nguồn Lực
(B27 Tô Ký, P.Trung Mỹ Tây, H.Hóc Môn)
-Cty TNHH Phong Đạt
(158 An Dương Vương, P.An Lạc, Q.Bình Tân)
-Cty TNHH XNK S và F.G
(43 D7 Hồ Văn Huê, P.9, Q.Phú Nhuận)
-Website CT
-Lưu: (TTHT,HC)

Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009

Việc thanh toán từ tài khoản vãng lai

Chủ đề: Các sắc thuế thu trong nội địa
Người hỏi: Trần Quốc Nam - Cty CP DV SX XNK Bình Tây
Ngày hỏi: 11/07/2008
Nội dung hỏi: Kính chào Cục ThuếVừa qua chúng tôi có xuất khẩu một số lô hàng bán cho DN bên Mỹ, và đã nhận được số tiền thanh toán của bên mua thông qua tài khoản vãng lai của cá nhân người nước ngoài mở tại NH Việt Nam.Tuy là bên mua thanh toán từ tài khoản vãng lai của cá nhân, nhưng trong hợp đồng có qui định rõ việc này và cũng thể hiện rõ họ tên cũng như số tài khoản cá nhân của người này.Đồng thời phía nước ngoài cũng làm giấy ủy quyển cho cá nhân thay mặt cty để trả tiền cho chúng tôi.Vậy cho chúng tôi hỏi:-Tờ khai xuất khẩu có xác nhận thực xuất, hóa đơn GTGT, hợp đồng ngoại thương chúng tôi đều thực hiện đầy đủ, chỉ riêng vấn đề thanh toán qua NH như nêu trên thì chúng tôi có được khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào hay không?Rất mong Cục Thuế hướng dẫn.Trân trọng kính chào.


Nơi trả lời: Cục Thuế
Người trả lời: Chuyên viên phụ trách chủ đề Các sắc thuế thu trong nội địa
Ngày trả lời: 23/07/2008
Nội dung trả lời: Căn cứ Thông tư số 32/2007/TT-BTC ngày 09/04/2007 của Bộ Tài Chính hướngd ẫn về thuế GTGT Hoạt động xuất khẩu hàng hóa được áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 0% được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào phải có đầy đủ hồ sơ, chứng từ sau đây:- Hợp đồng xuất khẩu hàng hóa - Tờ khai hải quan- Hóa đơn GTGT- Chứng từ thanh toán qua ngân hàng+ Trường hợp phía nước ngoài thanh toán từ tài khoản tiền gửi vãng lai mở tại các tổ chức tín dụng tại Việt Nam thì việc thanh toán này phải được quy định trong hợp đồng xuất khẩu (hoặc phụ lục hợp đồng). Chứng từ thanh toán là giấy báo Có của ngân hàng bên xuất khẩu về số tiền đã nhận được từ tài khoản vãng lai của người mua phía nước ngoài đã ký hợp đồng.Thông tư 32/2007/TT-BTC chỉ quy định thanh toán từ tài khoản vãng lãi là doanh nghiệp mua , không quy định cá nhân không phải là người mua, do đó doanh nghiệp không hội đủ điều kiện về chứng từ thanh toán để khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào .Trân trọng kính chào!

Thái Hà, - Bài Bào Chữa của Luật Sư Lê Trần Luật

Luận cứ bào chữa này được trình bày tại phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai 8 giáo dân Thái Hà lúc 8 giờ ngày 08/12/2008 tại UBND phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội.
LUẬN CỨ BÀO CHỮA CHO BÀ NGUYỄN THỊ VIỆT BỊ TRUY TỐ VỀ TỘI “GÂY RỐI TTCC” VÀ “HỦY HOẠI TÀI SẢN”
Kính thưa các vị Linh mục và toàn thể giáo dân có mặt tại trụ sở Tòa án quận Đống Đa để dự khán phiên tòa công khai hôm nay!
Tôi, Lê Trần Luật, là Luật sư bào chữa cho bà Nguyễn Thị Việt- người bị Viện Kiểm sát quận Đống Đa truy tố theo Cáo trạng số 178a/KSĐT ngày 11/11/2008 về tội “Gây rối TTCC” và “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 245 và khoản 1 Điều 143 BLHS. Trước khi trình bày luận điểm bào chữa của mình, tôi thấy cần thiết phải nhấn mạnh và khẳng định với HĐXX rằng: bà Việt và những giáo dân bị xét xử hôm nay là hoàn toàn vô tội. Bất công thay cho những con người cầu nguyện để hy vọng tìm thấy công lý đã bị truy tố và xét xử như những người phạm tội.
Theo cáo trạng, bà Nguyễn Thị Việt đã thực hiện hành vi như sau:
“Bản thân là một giáo dân thường xuyên đi lễ tại Nhà thờ Thái Hà. Trước đó trong các buổi lễ các Linh mục chủ lễ cũng nói về việc cầu nguyện đòi lại đất của Công ty Cổ phần May Chiến Thắng đang sử dụng về cho Giáo xứ Thái Hà. Sau các buổi lễ trong nhà thờ các Linh mục thường dẫn các giáo dân ra khu vực bãi đất để cầu nguyện, hát Thánh ca và Việt cũng thường xuyên ra khu vực tường rào của Công ty Cổ phần May Chiến Thắng để cầu nguyện.
Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 15/8/2008, Việt đến nhà thờ Thái Hà để dự lễ. Sau đó Việt và một số giáo dân khác đi qua bức tường thấp đã bị phá trước đó vào trong khu đất để nhặt cỏ, dọn dẹp ở khu vực bể nước nơi đặt tượng Đức Mẹ. Khi có người đuổi, Việt đã đi ra ngoài theo lối cũ. Khi ra đến phía ngoài bức tường rào nơi đối diện bể nước, Việt nghĩ cần phải phá bỏ bức tường để đi vào khu vực bể nước cho tiện việc cầu nguyện. Sau đó Việt đã cùng các giáo dân khác đập phá bức tường rào. Bản thân Việt đã dùng tay, ván gỗ phá tường rào rộng khoảng 3m và còn khoảng 20cm nữa là đến chân tường và cùng khoảng 200-300 giáo dân khác tràn vào khu đất để cầu nguyện. Ngoài ra Việt đã nhặt gạch san lấp chổ trống tạo lối đi thuận tiện cho các giáo dân vào cầu nguyện, trừ những ngày không ở Hà Nội thì ngày nào Việt cũng ra khu đất của Công ty cổ phần may Chiến Thắng để cầu nguyện” (Cáo trạng, trang 9-10).
Thưa HĐXX!
1. Trước hết, tôi cần nói về nguồn gốc đất, lịch sử khiếu kiện của nhà thờ Thái Hà và mục đích cầu nguyện của bà Việt cùng các giáo dân
Bà Nguyễn Thị Việt và các giáo dân cho rằng khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng (tức số 116 phố Nam Đồng) là tài sản thuộc quyền sở hữu của Giáo xứ Thái Hà, nhưng thời gian qua đã bị các cơ quan quản lý Nhà nước chiếm đoạt trái phép, giao cho người khác sử dụng trái phép, phân lô bán đất trái phép, nhưng Giáo xứ khiếu nại đòi trả lại tài sản liên tục nhiều năm ròng không được cơ quan chức năng Nhà nước Việt Nam đáp ứng. Người dân mất lòng tin vào sự công minh của pháp luật nên buộc lòng phải cầu xin Thiên Chúa soi sáng mà trả lại cho họ sự công bằng.
Khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng là tài sản của Giáo xứ Thái Hà bị Sở Quản lý nhà đất Hà Nội (nay là Sở Tài nguyên, Môi trường và Nhà đất) chiếm đoạt bất hợp pháp rồi ra Quyết định số 76/QL-NĐ đem giao cho Xí nghiệp thảm len Hà Nội sử dụng kể từ ngày 30/01/1961 đến nay.
Sở dĩ, tôi dám khẳng định 16.296m2 khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng bị chiếm đoạt bất hợp pháp bởi lẽ:
* Nguồn gốc khu đất này là đất mua hợp pháp:
1.1. Năm 1928, Đức Giám Mục Francois Chaize, Giám quản Tông toà Giáo phận Hà Nội đứng tên mua giúp cho Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) khu đất khoảng 400 m x 150 m nằm trên quốc lộ 6, nay là phố Nguyễn Lương Bằng, tổng diện tích là 61.455 m2, tức là 6,1455 ha (Xin xem hình 3: Bản đồ của Conservation de la Propiété Foncière de Hà Nội- Sở Quản thủ Điền thổ Hà Nội- lập ngày 16.08.1944).
1.2. Ngày 22.05.1944, Đức Giám Mục Francois Chaize đã làm giấy tuyên bố nhượng quyền sở hữu đất đai và toàn bộ bất động sản trên khu đất này cho các linh mục DCCT. Cha Edmond Dionne, Giám tỉnh DCCT Việt Nam, đã đứng ra tiếp nhận sự chuyển nhượng này (Xin xem tài liệu Acte de Cession de Propriété)
1.3. Tu viện DCCT bắt đầu cư trú tại khu đất trên đây từ ngày 26.09.1928. Năm 1930 các linh mục DCCT xây dựng toà nhà thứ nhất. Năm 1939 xây dựng toà nhà thứ hai nối tiếp toà nhà thứ nhất. Năm 1935 Tu viện cũng xây dựng một ngôi nhà thờ tạm thời mà ngày nay vẫn còn đang sử dụng. Tu viện còn xây dựng nhà đệ tử, nhà hội quán, hồ bơi, nhà ở cho gia nhân, nhà kho, nhà chăn nuôi gia súc.
Tu viện vẫn sở hữu và sử dụng toàn bộ đất đai và nhà cửa nằm trên khu đất trên đây một cách bình thường cho đến năm 1954. Ngoài khu đất này, Tu viện còn sở hữu một số khu đất khác tại các làng Thái Hà (Xin xem hình 2: Bản chụp bằng khoán điền thổ của DCCT năm 1944 ) và tại các làng Nam Đồng, Khâm Thiên, Trung Tự, v.v.
* Căn cứ toàn bộ văn bản pháp luật điều chỉnh về đất đai giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1962 thì đất đai của Giáo xứ Thái Hà và nhà cửa trên diện tích đất này dùng vào mục đích phụng sự tôn giáo không thuộc đối tượng bị cải tạo, tịch thu hay trưng thu, trưng dụng mà còn phải được chính quyền mới tôn trọng và bảo bảo vệ; cụ thể như sau:
- Toàn bộ 38 Điều của Luật Cải Cách Ruộng Đất năm 1953 ghi rõ đối tượng cải tạo của Luật CCRĐ 1953 là ruộng đất để sản xuất nông nghiệp ở nông thôn, mà đất đai thuộc khuôn viên nhà thờ Thái Hà là đất ở Thành thị (Thủ đô Hà Nội) nên không thuộc đối tượng bị cải cách của Luật CCRĐ;
- Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962 “về việc quản lý đất của tư nhân cho thuê, đất vắng chủ, đất bỏ hoang ở nội thành, nội thị”. Đối tượng điều chỉnh của Thông tư này là đất cho thuê, đất vắng chủ, đất bỏ hoang ở nội thành, nội thị;
Cái duy nhất mà Quyết định số 2476/QĐ-UBND ngày 30/6/2008 của UBND thành phố Hà Nội vịn vào là Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962 để cho rằng “Đất cho thuê của các tôn giáo, các Hội dù diện tích cho thuê nhiều hay ít, đều do Nhà nước trực tiếp quản lý, Nhà nước không bồi hoàn cho họ một khoản tiền nào” thì UBND Thành phố Hà Nội đã tự mâu thuẫn với chính mình, bởi lẽ:
+ Cũng bằng Quyết định số 2476/QĐ-UBND ngày 30/6/2008, UBND Thành phố Hà Nội đã xác nhận tại thời điểm năm 1961 khu đất này do Linh mục Vũ Ngọc Bích quản lý, Linh mục không ký hợp đồng cho ai thuê đất; nên khu đất này chưa bao giờ bị bỏ hoang, cũng không vắng chủ, không cho ai thuê mướn nên không thuộc đối tượng điều chỉnh của Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962;
+ Mặt khác, ngày 30/01/1961 Sở quản lý nhà đất Hà Nội (nay là Sở Tài nguyên, Môi trường và Nhà đất) có Quyết định số 76/QL-NĐ giao cho Xí nghiệp thảm len Hà Nội được sử dụng khu đất phố Nam Đồng, khu Đống Đa, Hà Nội với diện tích 16.296m2 để làm xí nghiệp sản xuất (trích Cáo Trạng). Vậy Sở Quản lý nhà đất Hà Nội lấy đâu ra 16.296m2 đất để giao cho Xí nghiệp thảm len?
Đất này không thể tự nhiên “mọc” ra, Sở Quản lý nhà đất Hà Nội cũng không thể tự “đẻ” ra 16.296m2 đất, mà đó chính là đất thuộc khuôn viên Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế được sử dụng vào mục đích phục vụ tín ngưỡng tôn giáo của giáo dân; nhưng đã bị Sở Quản lý nhà đất Hà Nội công nhiên chiếm đoạt một cách trái pháp luật trước khi có Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962 ít nhất là 523 ngày (nếu tính từ ngày Sở Quản lý nhà đất Hà Nội ra Quyết định giao đất cho Xí nghiệp Thảm len).
Rõ ràng, việc UBND Thành phố Hà Nội viện dẫn Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962 là để hợp pháp hóa hành vi chiếm đoạt đất một cách trái pháp luật của Sở quản lý nhà đất Hà Nội đối với Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế mà thôi. Nhưng việc “hợp pháp hóa” này cũng không hợp lý, không hợp pháp, bởi một lẽ đơn giản, như tôi đã phân tích và chứng minh ở trên, đất đai thuộc khuôn viên Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế chưa bao giờ là đối tượng bị tịch thu, quản lý của Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962 cả.
- Sắc Lệnh của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Võ Nguyên Giáp ký ngày 20/09/1945 ghi rõ: “Điều thứ 1: Đền chùa, lăng tẩm, nhà thờ, tất cả các nơi có tính cách tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào, nhân dân đều phải tôn trọng không được xâm phạm”;
- Điểm 3 Nghị Quyết của Quốc Hội ngày 26/3/1955 về vấn đề Tôn giáo “Các nhà thờ, chùa, thánh thất được tôn trọng và bảo vệ”;
- Sắc lệnh số số 234/SL ngày Ngày 14 Tháng 06 năm 1955 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký: “Điều 6: Các nhà thờ, chùa, đền, miếu, thánh thật và các đồ thờ, các trường giáo lý của tôn giáo được luật pháp bảo hộ”;
Rõ ràng, từ cụ Võ Nguyên Giáp, cụ Hồ Chí Minh đến Quốc Hội đều có cùng quan điểm là luật pháp phải tôn trọng và bảo vệ các cơ sở thờ tự tôn giáo; nhưng thực tế các cấp chính quyền đã làm điều ngược lại, không căn cứ vào bất cứ điều luật nào vẫn ngang nhiên chiếm đoạt đất đai thuộc sở hữu nhà thờ Thái Hà rồi giao cho đơn vị khác sử dụng.
Phía UBND Thành phố Hà Nội viện lý do rằng:
“Ngày 24/10/1961 Linh mục Vũ Ngọc Bích (là người quản lý nhà, đất) đã ký biên bản “Hội nghị bàn giao nhà thống nhất quản lý vào Nhà nước” bàn giao toàn bộ nhà đất do Dòng Chúa Cứu Thế quản lý tại 116 Nam Đồng (trừ diệnt ích nhà thờ) gồm 3.905m2 nhà chính, 945m2 nhà phụ trên diện tích khoảng 60.000m2 đất giao sang cho Nhà nước quản lý, trong đó có khu đất do Xí nghiệp Thảm len (nay là Công ty cổ phần May Chiến Thắng) đang sử dụng”.
Lập luận này rất vô lý, người quản lý làm sao có quyền tự ý giao tài sản của chủ nhân cho người khác được, bởi theo pháp luật cũng như theo Giáo luật, không có ai, kể cả Giám Mục, được tự ý sang nhượng, chuyển đổi đất đai, tài sản Giáo Hội Công Giáo.
Bởi lẽ:
- Như tôi đã trình bày ở trên, đất đai thuộc sở hữu hợp pháp của Nhà thờ Thái Hà từ năm 1928, cho đến ngày 30/01/1961 bị Sở Quản lý nhà đất Hà Nội chiếm dụng trái phép thì diện tích nhà đất này chưa bao giờ thuộc diện bị cải tạo theo Luật Cải Cách Ruộng Đất và Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962, cũng không hề có quyết định trưng dụng, trưng thu, trưng mua nào hết; mà diện tích nhà đất này thuộc diện bị quản lý không rõ lý do, được quy định tại khoản 5 Điều 2 Nghị quyết số 23/2003/QH11: “Quản lý nhà đất trong từng thời điểm nhất định và nhà đất của các đoàn hội, tôn giáo”.
Như vậy, UBND Thành phố Hà Nội phải vận dụng Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội “Quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 07 năm 1991” và Nghị định 127/2005/NĐ-CP ngày 10/10/2005 “Hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội và Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991” để giải quyết khiếu nại đòi nhà đất của Giáo xứ Thái Hà;
Điều 4 Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định:
“Đối với nhà đất mà chủ sở hữu tuy thuộc diện thực hiện các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 nhưng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành, cơ quan nhà nước chưa có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó thì Nhà nước không thực hiện việc quản lý theo quy định của các chính sách trước đây. Việc công nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
“Chưa có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó” là như thế nào? Điểm b Điều 3 Nghị định 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn thủ tục pháp lý được coi là có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất như sau:
“b) Đối với diện tích nhà đất đang do các cơ quan, tổ chức (trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản này) quản lý, sử dụng vào mục đích không phải để ở thì giao cho các cơ quan, tổ chức đó quản lý, sử dụng theo quy định về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.
Trường hợp các cơ quan, tổ chức đang cho thuê quỹ nhà đất này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thu hồi để giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước của địa phương quản lý, sử dụng theo quy định về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.
Trong hồ sơ vụ án này, tôi không hề thấy có Quyết định của UBND Thành phố Hà Nội giao diện tích nhà đất của Giáo xứ Thái Hà cho Công ty May Chiến Thắng sau ngày Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 có hiệu lực thi hành (ngày 22/04/2005), không thấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho Công ty May Chiến Thắng, có nghĩa là Công ty May Chiến Thắng đã sử dụng diện tích nhà đất này bất hợp pháp. Mặt khác, Công ty May Chiến Thắng lại ký Hợp đồng không số ngày 01/6/2006 cho Công ty TNHH Bao Bì Đống Đa thuê lại diện tích nhà đất này (BL 750, 751) mà UBND Thành phố Hà Nội không hề có Quyết định thu hồi lại là Công ty May Chiến Thắng, Công ty TNHH Bao Bì Đống Đa đang sử dụng nhà đất trái phép và trái với quy định tại điểm b Điều 3 Nghị định 127/2005/NĐ-CP đã viện dẫn ở trên.
Vì Công ty May Chiến Thắng, Công ty TNHH Bao Bì Đống Đa đang sử dụng nhà đất trái phép của Giáo xứ Thái Hà, nên diện tích nhà đất này phải được xử lý theo Điều 4 Nghị định 127/2005/NĐ-CP là: “Đối với nhà đất tuy thuộc diện phải thực hiện các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 nhưng đến ngày Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 có hiệu lực thi hành, Nhà nước chưa có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó thì Nhà nước không tiếp tục thực hiện việc quản lý theo các chính sách trước đây”.
Căn cứ vào các văn bản pháp luật tôi đã viện dẫn ở phần trên thì UBND Thành phố Hà Nội phải trả lại diện tích nhà đất của Giáo xứ Thái Hà, vì Giáo xứ Thái Hà mới chính là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản đó; nhưng UBND Thành phố Hà Nội lại cố tình bỏ qua Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11, Nghị định 127/2005/NĐ-CP (hiệu lực thi hành ngày 01/11/2005) mà vận dụng Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 để nại lý do không trả lại nhà đất cho Giáo xứ Thái Hà là chủ sở hữu có giấy tờ hợp pháp, cũng không bồi thường là rất vô lý và trái
Nếu Tòa án công nhận lập luận của phía chính quyền Thành phố Hà Nội là đúng, tức công nhận người quản lý có quyền định đoạt số phận tài sản trên cả chủ nhân của tài sản, thì điều này chẳng những trái luật, mà còn công khai thừa nhận rằng: Chủ tịch nước, Thủ tướng hay ai đó cấp cao cao hơn một chút (có quyền quản lý đất nước) là có quyền “giao” lãnh thổ, lãnh hải, không phận nước Việt Nam cho nước ngoài mà không cần thông qua Quốc Hội hoặc không cần phải tổ chức trưng cầu ý dân?
Đó là chưa kể đến việc UBND Thành phố Hà Nội không trưng ra được bản gốc và kết luận giám định chữ viết của Biên bản bàn giao, cái mà UBND Thành phố Hà Nội đưa ra chỉ là các bản photocopy chữ nghĩa mập mờ, không có giá trị pháp lý.
Từ những chứng cứ nêu trên, đã chứng minh được rằng:
Khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng (tức số 116 phố Nam Đồng) là tài sản thuộc quyền sở hữu của Giáo xứ Thái Hà, nhưng đã bị các cơ quan quản lý Nhà nước chiếm đoạt trái phép, Giáo xứ đã khiếu nại đòi lại nhiều năm mà phía Nhà nước vẫn lờ đi nên bà Nguyễn Thị Việt và giáo dân phải cầu nguyện xin Thiên Chúa trả lại sự công bằng là lẽ tất nhiên và hoàn toàn đúng đắn.
(Phần chữ màu xanh này HĐXX sơ thẩm nhiều lần cắt không cho Luật sư trình bày tại Tòa)
Thưa HĐXX!
Có thể, HĐXX và VKS cho rằng nguồn gốc đất và lịch sử khiếu kiện của nhà thờ Thái Hà là vấn đề không nằm trong vụ án hôm nay, nhưng tôi xin được lưu ý rằng chính việc giải quyết khiếu nại của Thái Hà không đến nơi đến chốn, kéo dài nhiều năm của chính quyền Hà Nội đã dẫn đến sự bức xúc của các Linh mục và các giáo dân. Họ không còn tin vào công lý và sự công bằng của pháp luật, vì thế họ phải chọn giải pháp cầu nguyện để mong chính quyền quan tâm đến những lợi ích hợp pháp của họ
2. Về cáo buộc gây rối TTCC:
Cáo trạng đã nhầm lẫn giữa cầu nguyện và hành lễ, cố tình đánh tráo hai khái niệm này để buộc tội bà Việt và các giáo dân khác phạm tội gây rối TTCC:
Trước khi chứng minh bà Việt không phạm tội gây rối TTCC, tôi thấy cần thiết phải làm sáng tỏ sự khác nhau giữa “cầu nguyện” và “hành lễ”. Phân tích sự khác nhau này để HĐXX thấy rằng với hành vi “cầu nguyện”, bà Việt không thể phạm vào tội gây rối TTCC.
Cầu nguyện là việc tín đồ cầu xin đấng thiêng liêng mà mình tin tưởng ban cho họ một đặc ân, đáp ứng một ước muốn, nguyện vọng nào đó của họ. Cầu nguyện có thể nói lên bằng lời nói, có thể bằng việc đọc kinh, hát Thánh ca, hay đơn giản chỉ là sự im lặng thành kính, tập trung tinh thần liên thông tư tưởng với đấng tối cao, Thiên Chúa sẽ hiểu rằng tín đồ của mình muốn cầu xin điều gì. Người Công giáo có thể cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, không pháp luật ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới này lại cấm tín đồ cầu nguyện cả, vì đó là vấn đề thuộc về tâm linh, về niềm tin tôn giáo trong tư tưởng con người, có muốn cấm cũng không thể cấm được.
“Lễ” là nghi thức tôn giáo của người Công giáo, trong đó có những điều kiện bắt buộc phải có, nếu thiếu điều kiện này thì không phải là “lễ” và không thể “hành lễ” được. “Hành lễ” tức là làm lễ, là tiến hành một cuộc “lễ”, nghi thức hành lễ được quy định trong Lễ nghi phụng vụ của Giáo Hội Công giáo (xem sách lễ Roma), không ai có quyền thay đổi.
Trong nghi thức hành lễ luôn luôn có cầu nguyện nhưng cầu nguyện không bao giờ là hành lễ cả.
Rõ ràng, thực tế giáo dân đến khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng chỉ cầu nguyện, không hề “hành lễ”. Việc cáo trạng không hiểu (hay cố tình không hiểu), nhập nhằng các khái niệm “lễ” và “cầu nguyện” để xuyên tạc, bóp méo mục đích cầu nguyện của giáo dân nhằm thổi phồng sự việc, vu cáo cho giáo dân vi phạm Điều 25 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngược lại, hành vi cố tình cản trở giáo dân cầu nguyện mới chính là hành vi vi phạm pháp luật.
Khoản 1, Điều 245 BLHS về “Tội gây rối TTCC” qui định: “Người nào gây rối TTCC gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
Hành vi gây rối TTCC quy định tại Điều 245 BLHS được hiểu là hành vi làm náo động trật tự nơi công cộng gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này, hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, toàn bộ lời khai người làm chứng có trong hồ sơ vụ án (BL từ số 836 liên tục đến số 945) không có lời khai nào chỉ đích danh bà Nguyễn Thị Việt (hoặc bất kỳ bị cáo nào có mặt trong phiên xử sơ thẩm hôm nay) đã có hành vi cụ thể như thế nào để gây rối TTCC. Hồ sơ vụ án và Cáo trạng đã không chứng minh được bà Nguyễn Thị Việt (và các bị cáo Nguyễn Thị Nhi, Ngô Thị Dung, Lê Quang Kiện, Lê Thị Hợi, Phạm Trí Năng, Nguyễn Đắc Hùng, Thái Thanh Hải) đã có hành vi đuổi đánh nhau, hò hét gây náo loạn nơi công cộng, đập phá tài sản nơi công cộng, gây tắc ách giao thông…
Cáo trạng cũng ghi nhận bà Nguyễn Thị Việt chỉ có những hành vi sau: “nhặt cỏ, dọn dẹp ở khu vực bể nước nơi đặt tượng Đức Mẹ”, “nhặt gạch san lấp chổ trống”, “ngày nào Việt cũng ra khu đất của Công ty cổ phần may Chiến Thắng để cầu nguyện”, “dùng tay, ván gỗ phá tường rào rộng khoảng 3m và còn khoảng 20cm nữa là đến chân tường”.
Trước hết, phải thấy rằng bà Việt chưa bị xử lý hành chính và cũng chưa bị kết án về tội này. Như vậy vấn đề được đặt ra, liệu với hành vi nhặt gạch, nhổ cỏ, dọn dẹp và cầu nguyện có gây ra hậu quả nghiêm trọng nào thỏa mãn Điều luật của qui định không ?
Theo hướng dẫn tại điểm 5.1. Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội Đồng Thẩm Phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao thì hậu quả nghiêm trọng xảy ra trong các trường hợp sau:
a. Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ;
b. Cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;
c. Thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên;
d. Chết người;
đ. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
e. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% trở lên;
g. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên;
h. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên.
Tham chiếu với Cáo trạng, có thể thấy rằng VKS quận Đống Đa, TP Hà Nội đã cho rằng hành vi của bà Việt gây ra thiệt hại về tài sản có giá trị trên 10 triệu đồng.
Thưa HĐXX!
Toàn bộ hồ sơ vụ án có thể thấy ngay rằng Cơ quan điều tra và VKS quận Đống Đa, TP Hà Nội không chứng minh được rằng hành vi nhặt gạch, nhổ cỏ và cầu nguyện của bà Việt có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại đã xảy ra cho Công ty may Chiến Thắng.
Công ty May Chiến Thắng lập danh sách chi tiền cho 308 người với tổng số chi là 158.468.000 đồng với lý do “Chi tiền phụ cấp cho công nhân làm tại 178 Nguyễn Lương Bằng do giáo dân gây rối làm ảnh hưởng đến NSLĐ” (BL 810 đến 813), nhưng danh sách này không có quyết định tuyển dụng, quyết định bổ nhiệm (nếu là công chức) kèm theo; không có hợp đồng lao động (nếu là công nhân) kèm theo, không có danh sách đăng ký lao động (công nhân hợp đồng) với Phòng Lao động - Thương binh Xã hội quận Đống Đa; như vậy, danh sách này là do lãnh đạo Công ty May Chiến Thắng tự “đặt” ra. Vì vậy, con số chi 158.468.000 đồng là không có thật. Có thể thấy, Cty may Chiến Thắng tự ý thu chi một cách vô tội vạ. Chẳng lẽ Cty may Chiến Thắng làm ăn thua lỗ, “tham ô” rồi lấy lý do giáo dân cầu nguyện làm ảnh hưởng hay sao?
Mặt khác, Công ty May Chiến Thắng lấy tài liệu, chứng cứ gì chứng minh rằng 308 người có tên trong danh sách bị “ảnh hưởng đến NSLĐ” là do giáo dân chớ không phải do các nguyên nhân khác như: lười biếng, ăn cắp giờ công, đau ốm, bệnh tật, lo lắng việc riêng gia đình…? Tài liệu so sánh năng suất lao động trước và sau ngày 15/8/2008 ở đâu? Cơ quan, tổ chức chuyên môn nào giám định và kết luận giáo dân làm “ảnh hưởng đến NSLĐ”? “Báo cáo thiệt hại ảnh hưởng sản xuất tháng 8-9 năm 2008 tại cơ sở sản xuất 178 Nguyễn Lương Bằng” (BL 814) nhưng nội dung lại là doanh thu tháng 9/2008 bị giảm. Chẳng lẽ bà Nguyễn Thị Việt và các bị cáo phải chịu trách nhiệm về việc Công ty May Chiến Thắng bị giảm doanh thu do không có khách mua nên không bán được hàng hóa?
- Công ty May Chiến Thắng còn tự lập danh sách chi tiền trực bảo vệ cho 137 người với tổng số tiền 191.196.000 đồng (BL 808, 809) trái nguyên tắc tài chính kế toán giống như Danh sách chi tiền phụ cấp đã nêu ở trên. Việc bố trí bảo vệ là chuyện riêng của Công ty thì Công ty tự chịu chi phí, không thể đổ lỗi cho giáo dân bởi lẽ Cáo trạng cũng xác định rõ bà Nguyễn Thị Việt và các bị cáo không có người nào xông vào nơi sản xuất của công ty chửi bới, hăm dọa, đánh đập công nhân hay chiếm đoạt tài sản, công cụ sản xuất, nguyên vật liệu sản xuất, cản trở hoạt động sản xuất của Công ty, mà họ chỉ cầu nguyện ở khu đất trống bên ngoài.
Theo Giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh số 1030006478 (đăng ký thay đổi lần thứ 3) ngày 27/4/20007 thì Công ty May Chiến Thắng là doanh nghiệp Nhà nước với 51% vốn điều lệ (chiếm 61.200/120.000 cổ phần), chủ đầu tư là Tổng công ty Dệt - May Việt Nam -“là tổng công ty Nhà nước hoạt động kinh doanh” được thành lập theo Quyết định số 253/TTg ngày 29/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ. Việc Công ty cổ phần May Chiến Thắng chi đến 349.664.000 đồng không nằm trong danh mục chi thường xuyên, mà không có thủ tục đề nghị và ý kiến chuẩn y cho phép của Tổng công ty Dệt - May Việt Nam là trái quy định tại Quyết định số 52/2006/QĐ-BTC ngày 25/9/2006 về “Quy chế quản lý tài chính của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước”.
- Thêm vào đó, Cáo trạng cho rằng việc Cty may Chiến Thắng giảm doanh thu tháng 8, tháng 9 năm 2008 là 1.059.708.000 đồng. Việc giảm doanh thu là do năng lực lãnh đạo và tổ chức kinh doanh của CTy may Chiến Thắng quá kém, chứ hà cớ gì lại cho rằng nguyên nhân là do giáo dân cầu nguyện?
Với thiệt hại rất lớn như vậy mà Cty may Chiến Thắng lại không yêu cầu bồi thường thiệt hại là hết sức vô lý, mà bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận ra. Tôi đề nghị HĐXX lưu tâm đến điểm này.
Rõ ràng các hành vi nhặt cỏ, dọn dẹp, nhặt gạch, cầu nguyện của bà Việt không gây ra thiệt hại, ảnh hưởng đến bất kỳ ai, không để lại hậu quả nào, tức không hề có hậu quả nghiêm trọng nào xảy ra.
Tôi không thể tin rằng: trong một xã hội mà ngay cả dọn dẹp, nhặt gạch, nhổ cỏ, cầu nguyện cũng là phạm tội thì thử hỏi còn hành vi nào không bị coi là phạm tội? Do đó, tôi khẳng định rằng, bà Nguyễn Thị Việt không phạm tội gây rối TTCC.
3. Về cáo buộc hủy hoại tài sản
Bị buộc tội vì đã phá hủy một thứ vật dụng được dựng lên bất hợp pháp và là đồ phế thải
Khoản 1 Điều 143 BLHS quy định: “Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hủy hoại tài sản là hành vi làm cho tài sản bị mất hẳn giá trị sử dụng, không thể khôi phục lại được và toàn bộ giá trị tài sản không còn.
Như vậy, trước hết tội danh này đòi hỏi phải xác định được tài sản bị hủy hoại là tài sản có thật, hợp pháp, có giá trị sử dụng. Tài sản hợp pháp và có thật thì mới có thể hủy hoại và mới được pháp luật bảo vệ, tài sản không có thật thì không thể hủy hoại. Đồng thời, tài sản phải có giá trị sử dụng bằng số tiền cụ thể được quy định tại khoản 1 Điều 143 BLHS.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Tài sản là “Của cải vật chất dùng để sản xuất hoặc tiêu dùng”. Trong Kinh tế học, tài sản là một “thuật ngữ kế toán kinh doanh chỉ tất cả những gì có giá trị tiền tệ thuộc sở hữu của một cá nhân, một đơn vị hoặc của Nhà nước; có thể được dùng để trả nợ, sản xuất ra hàng hoá hay tạo ra lợi nhuận bằng cách nào đó. Một tài sản có ba đặc tính không thể thiếu: lợi nhuận kinh tế có thể xảy ra trong tương lai; do một thực thể hợp pháp kiểm soát; thu được kết quả ngay từ hợp đồng kinh doanh hoặc giao dịch đầu tiên”.
Đối với bức tường mà Cáo trạng cho rằng đã bị bà Nguyễn Thị Việt hủy hoại, thì bức tường đó không phải là tài sản, bởi các lẽ sau:
- Bức tường đó là vật vô giá trị, không mang lại lợi nhuận kinh tế, không phải là vật tiêu dùng: Cáo trạng không chứng minh được bức tường lúc nó còn tồn tại thì nó mang lại giá trị kinh tế gì, cụ thể là bằng bao nhiêu tiền. Tôi khẳng định rằng bức tường này là vật vô giá trị và không phải là tài sản, bằng chứng là sau khi Nguyễn Thị Việt và các bị cáo khác bị khởi tố có 1 ngày thì 19/9/2008 UBND Thành phố Hà Nội đã cho xe cơ giới san bằng bức tường thành đống gạch vụn;
- Bức tường không được xây dựng hợp pháp: Như tôi đã chứng minh ở phần trên, khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng bị Công ty May Chiến Thắng chiếm dụng bất hợp pháp thì mọi thứ được xây dựng phía trên khu đất ấy không được sự đồng ý của chủ nhân thật sự của khu đất đều là xây dựng bất hợp pháp, cần phải tháo dỡ.
- Căn cứ trình tự, thủ tục thu hồi đất quy định tại khoản 1, khoản 3, khoản 4 Điều 130 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, thì trước khi khởi công xây công viên ít nhất 180 ngày UBND Thành phố Hà Nội đã phê duyệt kế hoạch san bằng bức tường này rồi. Như vậy, về mặt pháp lý, bức tường đã bị chính UBND Thành phố Hà Nội xoá sổ 5 tháng trước ngày 15/8 (ngày giáo dân đập bức tường).
- Việc định giá bức tường chỉ hợp lý khi bức tường được xây dựng hợp pháp và có giá trị sử dụng, được sử dụng liên tục và cho đến thời điểm hiện nay vẫn còn nhu cầu sử dụng; còn đối với một vật đã bị chính UBND Thành phố Hà Nội san bằng vì không còn giá trị sử dụng thì không thể đem ra “định giá” để gán ghép cái tên “tài sản” cho nó được.
- Theo hồ sơ vụ án, bức tường được bắt đầu thi công vào ngày 15/1/2008 (BL 802) với tổng số tiền hơn 17 triệu đồng, đến thời điểm ngày 15/8/2008 là 7 tháng, tức bức tường còn rất mới, rất cứng; điều này mâu thuẫn với Cáo trạng là “bức tường thấp đã bị phá trước đó” (trang 4). Tôi được biết bức tường này đã tồn tại hơn mấy chục năm và đã mục nát, đã bị người nào đó phá vỡ từ trước (như Cáo trạng thừa nhận) nên một bà già như bà Nguyễn Thị Việt mới có thể dùng tay và mảnh ván gỗ phá vỡ dễ dàng như thế. Bà Nguyễn Thị Việt là phụ nữ, đã quá tuổi lao động 4 năm, lại có thể dùng tay và mảnh ván gỗ phá vỡ được bức tường xi măng mới dài đến 3m thì bà Việt phải là người có sức khỏe phi thường hoặc là hồ sơ (các BL 796 đến 807) đã được ngụy tạo để hợp pháp hóa nhằm “làm mới” một vật mục nát không có giá trị sử dụng.
Mặt khác, Cáo trạng không chứng minh được bà Việt dùng tay và mảnh ván gỗ phá vỡ bức tường rào rộng khoảng 3m còn khoảng 20cm nữa là đến chân tường thì cái đoạn 3m do bà Việt phá vỡ là bao nhiêu tiền trong tổng số 3.479.990 đồng của toàn bộ “bức tường gạch dài 6 mét * 1.3 mét” (BL 819)?.
Từ những lập luận trên, tôi cũng khẳng định rằng bà Việt không phạm tội hủy hoại tài sản.
4. Ngoài những lập luận cơ bản tôi đã trình bày, HĐXX nên lưu ý những vấn đề sau đây:
a- Vụ án không có vật chứng
Cáo trạng cho rằng ông Phạm Hải Dương - Cán bộ Thanh Tra xây dựng phường Quang Trung, ông Nguyễn Đức Hoàn, ông Đặng Tuấn Thảo- 2 cán bộ Đội An ninh Công an quận Đống Đa, là người trực tiếp quay phim, ghi hình những người đập phá bức tường. Tại sao ông Phạm Hải Dương, với chức vụ Thanh tra xây dựng của mình, lẽ ra lúc bà Việt và các bị cáo khác đập bức tường thì ông Dương phải lập tức ngăn chận và lập biên bản vi phạm (nếu có), nhưng ông Dương lại điềm nhiên đứng đó mà quay phim?
Hành vi gây rối TTCC và hủy hoại tài sản theo Pháp lệnh Tổ chức điều tra Hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan Cảnh sát, tại sao 2 vị cán bộ An ninh quận Đống Đa này cũng chen vào đó mà quay phim, chụp hình? 2 vị cán bộ An ninh quận Đống Đa này tự ý đến số 178 Nguyễn Lương Bằng quay phim chụp hình hay theo sự phân công, chỉ đạo của ai? Hóa ra cán bộ An ninh Công an quận chỉ làm có mỗi công việc là rình mò, theo dõi, “vạch lá tìm sâu” để bắt tội dân hay sao?
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 720/2008/HSST-QĐ ngày 21/11/2008 của Tòa Án quận Đống Đa xác định chỉ có các ông bà Vũ Đức Lợi, Đặng Thúy Loan, Lại Thế Hiếu, Đinh Hồng Phong, Trần Tiến Hùng là người làm chứng. Tôi xin hỏi đại diện Viện Kiểm sát quận Đống Đa và Hội đồng xét xử sơ thẩm Tòa án quận Đống Đa: Trong vụ án này ông Phạm Hải Dương, ông Nguyễn Đức Hoàn, ông Đặng Tuấn Thảo tư cách tham gia tố tụng là gì? Là người làm chứng hay cán bộ của cơ quan tiến hành tố tụng?
Nếu 3 ông là người làm chứng thì tại sao phim ảnh do các ông Dương, Hoàn, Thảo quay không được giao nộp cho cơ quan điều tra và lập Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu do người khác tự nguyện giao nộp theo quy định tại Quyết định số 1351/2004/QĐ-BCA (C11) ngày 18/11/2004 của Bộ Công An? Rõ ràng 3 ông Dương, Hoàn, Thảo không phải là Điều tra viên (không có tên trong Quyết định phân công điều tra vụ án) (BL 3, 4), cũng không phải người làm chứng, thì ai cho phép các ông này chen vào hoạt động của cơ quan tố tụng quận Đống Đa một cách trái luật?
Cáo trạng số số 178a/KSĐT ngày 11/11/2008 của Viện Kiểm sát quận Đống Đa ghi rõ “Tang vật: Không” (Trang 17), vậy 2 đĩa hình ghi trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 720/2008/HSST-QĐ ngày 21/11/2008 của Tòa Án quận Đống Đa lấy ở đâu ra? 2 đĩa hình này đã được cơ quan chuyên môn nào giám định tính trung thực, tính nguyên bản của nó chưa? Hay nó chỉ là những hình ảnh được dùng xảo thuật cắt xén, lắp ghép để vu vạ?
Khoản 1 Điều 64 BLTTHS quy định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”. 2 đĩa hình ghi trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 720/2008/HSST-QĐ của Tòa Án quận Đống Đa đã không được thu thập đúng quy định nhưng Tòa Án quận Đống Đa coi đó là “vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa” là trái với khoản 1 Điều 64 BLTTHS. Vì vậy, 2 đĩa hình đó không phải là vật chứng.
Tất cả những khuất tất kể trên không được làm sáng tỏ tại phiên tòa này bắt buộc tôi phải nghĩ rằng vụ án này chỉ là một âm mưu từ phía nhà cầm quyền nhằm trả thù những người dám phản kháng đối với sai trái của chính quyền.
b-Những kẻ phạm tội thật sự đã không bị truy tố:
Điều đáng chú ý là khi những giáo dân cầu nguyện ôn hòa bị khởi tố vào các ngày 05/9, 09/9, 17/9/2008; thì trong khi đó, đêm 31/8/2008 có kẻ đã cố ý lẫn vào đám đông giáo dân đang cầu nguyện để xịt hơi cay gây náo loạn, đánh người già, trẻ em đổ máu; đêm 18 rạng 19/9/2008 có kẻ đã cố ý lợi dụng lúc tối trời hất mắm tôm trộn nhớt thải lên bàn thờ và tượng Đức Mẹ… (có hình ảnh rõ ràng). Gần đây nhất là đêm 15 rạng 16/11/2008, một nhóm người tự xưng là “thứ dân bức xúc”, chẳng hiểu “bức xúc” chuyện gì, mà nửa đêm xông vào nhà thờ Thái Hà đòi đập đền Thánh Giêrađô, họ hô hào và tự đuổi nhau, họ lao vào trong khuôn viên nhà thờ, giáo dân đã nhìn thấy những vị chính quyền phường Quang Trung và lực lượng Công an mặc cảnh phục lẫn thường phục cũng có mặt trong đám đông lộn xộn này.
Những hành vi xịt hơi cay, đổ mắm tôm vào chốn linh thiêng của người có đạo, đánh đập người già, trẻ em không có khả năng tự vệ, làm náo loạn bên trong khuôn viên nhà thờ khi mọi người đang cầu nguyện, đòi đập phá đền Thánh…, xét về mặt tinh thần đó là hành vi hết sức vô đạo đức, mất hết tính người; xét về mặt pháp luật là hành vi hết sức lưu manh côn đồ, đáng bị khởi tố tội gây rối TTCC hay cố ý gây thương tích thì cơ quan điều tra quận Đống Đa lại im lặng, cho đến nay chưa có vụ án hay bị can nào thực hiện hành vi đó bị khởi tố cả; làm cho dư luận nghi ngờ rằng chính quyền quận Đống Đa đồng lõa, bao che cho nhóm côn đồ, lưu manh; rằng chính quyền lạm dụng quyền lực để trả thù những giáo dân tay không tấc sắt chỉ vì họ dám phơi bày cái sai trái của chính quyền và quyết tâm đòi hỏi sự công bằng?
Tôi hy vọng rằng sau phiên tòa này, cơ quan tố tụng quận Đống Đa cũng nên khởi tố, truy tố, xét xử những kẻ côn đồ nói trên để trả lại niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.
c- Việc đưa ông Ngô Quang Kiệt-Tổng Giám mục Giáo phận Hà Nội vào trong Cáo trạng là không cần thiết, không liên quan và hết sức vô duyên.
Cáo trạng nêu: “Do bức xúc, phẫn nộ trước những hành vi vi phạm pháp luật của Linh mục và giáo dân tại giáo xứ Thái Hà, đặt biệt là sau khi nghe những lời phát biểu của Tổng giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt phát biểu tại buổi làm việc với UBND Tp. Hà Nội vào ngày 20/09/2008.”
Tôi thấy cần thiết phải nhắc lại nguyên văn câu nói của Tổng giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt. Ngài nói như sau: “Do đó, chúng tôi xin nhắc lại, chúng tôi rất mong muốn xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng.”
Với câu nói nêu trên mà những kẻ quá khích tấn công vào cổng sau nhà thờ Thái Hà thì lẽ ra cần phải nghiêm trị. Mặt khác tôi thấy lời phát biều của Ngài không có mối liên hệ nào đến vụ án được xét xử ngày hôm nay.
d- Truy tố người vô tội để biện minh với dư luận
Toàn bộ bản Kết luận điều tra và Cáo trạng từ đầu chí cuối, thay vì đi sâu vào nội dung chi tiết chứng minh được hành vi của bị cáo phạm tội như thế nào thì lại kể lể lê thê, dài dòng về hành động của đám đông- tức những cá nhân-công dân khác-không phải bị cáo, với phương pháp trình bày và hàng loạt lập luận nhằm để lý giải về cách hành xử của chính quyền với dư luận, hơn là để cáo buộc bà Nguyễn Thị Việt và các bị cáo khác.
Ví dụ: đoạn nói về những phụ nữ Mường hay đoạn nói về phát biểu của Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt (sau khi các nạn nhân đã bị khởi tố) chẳng liên quan gì đến hành vi bị Cáo trạng coi là phạm tội và cũng không liên quan đến các bị cáo đang có mặt trong phiên tòa hôm nay.
Việc cơ quan tố tụng quận Đống Đa nhiều lần thay đổi tội danh của các bị cáo cho thấy rằng tự bản thân cơ quan tố tụng đã có sự lấn cấn, phân vân về việc làm cách nào để buộc tội các bị cáo cho bằng được.
Kính thưa các Linh mục và toàn thể giáo dân!
Việc một số cơ quan Nhà nước đã cố tình vi phạm pháp luật, không tôn trọng sự thật khách quan, không tôn trọng những chứng cứ pháp lý, thiếu công tâm trong quá trình giải quyết vấn đề đất đai, tài sản của Giáo xứ Thái Hà, đã gây bất bình rất lớn trong lòng giáo dân. Lẽ ra chính quyền Thành phố Hà Nội phải nhận thấy rõ điều đó và nhanh chóng sửa sai, trả lại công bằng cho người dân; đằng này lại cố tình lạm dụng quyền lực, dùng mọi thủ đoạn để đối phó với dân, kể cả vu vạ, dựng đứng sự việc, nhằm mục đích đè bẹp mọi tiếng nói từ lương tri con người, dung túng kẻ phạm tội thật sự, nhường chổ cho bóng tối và tội ác hoành hành, thách thức lòng tin.
Bà Nguyễn Thị Việt là một con người có lòng tự trọng, có niềm tin vào lẽ phải và Thiên Chúa, thì không lý do gì khi cầu nguyện cho sự công bằng, lẽ phải bà lại tự cho mình là có tội và phải hèn nhát “nhận tội” để cầu xin ân huệ từ phía những người không biết tôn trọng lẽ phải. Vì vậy, bà Nguyễn Thị Việt đã không “nhận tội” cũng không có gì lạ.
Từ các chứng cứ và lập luận ở phần trên, tôi đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bà Nguyễn Thị Việt không phạm tội “gây rối trật tự công cộng” và “hủy hoại tài sản”.
Xin cảm ơn mọi người đã chú ý lắng nghe tôi trình bày!
Luật sư LÊ TRẦN LUẬT

Biết viết gì bây giờ

Hôm nay mình bắt đầu tập viết bờ lốc, nghe nói nó khủng khiếp và vĩ đại lắm nên Bộ Thông Tin truyền thông Việt Nam phải đi năn nỉ các cụ Google, Yahooo để thương lượng nhờ người ta quản lý giúp.